Foreword: Người viết bài
xin kính gởi bài viết "Vũng Tàu Quê Hương Quê Ngoại Tôi" đến cô giáo
Hai Minh của sân trường Trung Học Vũng Tàu một thuở xa xưa, một thế kỷ
dĩ vãng cũ đã qua, nhưng những kỷ niệm Vũng Tàu vẫn đong đầy trong ký
ức. Kính cô. Việt Hải Los Angeles. *: Việt Hải Los
Angeles: Em học Petrus Ký Sài Gòn, nhưng Vũng Tàu Quê Ngoại vẫn đầy ắp
tình thương. Kỷ niệm tắm biển bị sứa mẹ sứa con sóng xô đánh ập vào mắt,
đôi mắt cửa sổ của tâm hồn sưng húp,... Nhìn con trai cứ ngỡ con
gái,... Subject: Vũng Tàu Quê Hương Quê Ngoại Tôi. Về địa
lý thì 2 địa danh Bà Rịa – Vũng Tàu là dải đất dài và hẹp nằm trên đất
liền và kể luôn hải đảo là huyện Côn Đảo. Địa hình tỉnh có thể chia làm 4
vùng: bán đảo hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng thung lũng
đồng bằng ven biển. Bán đảo Vũng Tàu theo hình thể dài và hẹp diện tích
82,86 km², độ cao trung bình 3-4m so với mặt biển. Hải đảo bao gồm quần
đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn. Vùng đồi núi bán trung du nằm ở phía Bắc và
Đông Bắc tỉnh phần lớn ở thị xã Phú Mỹ và các huyện Châu Đức, Xuyên
Mộc. Ở vùng này có vùng thung lũng đồng bằng ven biển bao gồm một phần
đất của thị xã Phú Mỹ và các huyện Long Điền, Bà Rịa, Đất Đỏ. Khu vực
này có những đồng lúa nước, xen lẫn những vạt đôi thấp và rừng thưa có
những bãi cát ven biển. Thềm lục địa rộng trên 100.000 km. Những địa
danh nổi tiếng bạn bè phây búc nên biết nhé...
1. Thích Ca Phật Đài
Là một ngôi chùa lớn nằm trên sườn núi Lớn của thành phố Vũng Tàu. Vẻ
đẹp của ngôi chùa chính là sự kết hợp rất khéo léo giữa kiến trúc tôn
giáo và phong cảnh thiên nhiên. Đáng chú ý ở ngôi chùa này là ngọn tháp
Bát Giác cao 19m và tượng Phật Thích Ca ngồi thiền trên tòa sen xây trên
lưng chừng núi du khách đứng từ xa có thể chiêm ngưỡng được. Đường đi:
Du khách đến Thích Ca Phật Đài theo đường Lê Lợi, gần bãi Trước theo
đường ven biển đi qua bãi Dâu, tới địa phận Bến Đá sẽ thấy Thích Ca Phật
Đài.
2. Tượng Chúa Giê-su Tượng Chúa Giê-su hay Tượng Đức
Chúa dang tay là một bức tượng Chúa Giê-su đứng trên đỉnh Núi Nhỏ của
thành phố Vũng Tàu, được xây từ năm 1974. Bức tượng này cao 32 m, sải
tay dài 18,3 m đứng trên độ cao 170 m nhìn ra biển, bên trong có cầu
thang 133 bậc lên tận 2 tay của tượng. Bức tượng có thể xem như một
phiên bản tương tự tại thành phố Rio de Janeiro của Brasil. Vị trí: Tượng chúa Kitô nằm trên đỉnh núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu
3. Bạch Dinh
Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây Bạch Dinh (Villa
Blanche) trên nền pháo đài Phước Thắng từng khai hỏa bắn vào tàu chiến
Pháp gần 50 năm trước. Bạch Dinh là một công trình kiến trúc La Mã 3
tầng, cao 19 m, lưng tựa vào Núi Lớn. Tại đây hiện còn lưu giữ 19 khẩu
thần công. Đôi nét về Bạch Dinh thì Bạch Dinh có màu trắng, nổi
bật với lối kiến trúc cũ độc đáo, là một di tích lịch sử
nổi tiếng và cực kỳ thu hút khách du lịch. Người dân Vũng Tàu
đã bảo vệ rất tốt những nét kiến trúc nổi bật từ cuối thế
kỷ 19 theo phong cách của Pháp này. Toàn quyền Paul Doumer muốn
xây dựng dinh thự này để giúp vợ ông bớt nhớ nhung cố quốc,
nên đã cho xây dựng theo phong cách Châu Âu nhưng với họa tiết
sắc xảo của Hy Lạp. Tuy nhiên, khi tòa nhà chưa hoàn thành thì
ông và vợ đã phải về Pháp để tranh cử và trở thành Tổng
Thống thứ 14 của Pháp. Toàn bộ nét kiến trúc sau hơn 100 năm
vẫn còn nguyên vẹn như lúc mới xây xong. Với chiều cao 27m so
với mực nước biển và 2 lối vào thú vị. 1 lối là 146 bậc
thang, 1 lối trải nhựa dành cho ô tô. Khuôn viên rộng, 1 nửa dùng
để trồng cây Báng Súng tán to, 1 nửa còn lại trồng hoa sứ
nhiều màu. Những tán cây tỏa bóng mát và mùi hương phảng phất
của hoa sứ điểm thêm sự thơ mộng cho không gian của di tích. Ôn
tí ti về lịch sử Bạch Dinh, được xây dựng từ năm 1898 và hoàn
thành vào năm 1916, có nghĩa là Villa Blanche. Dinh thự dùng làm
nơi nghỉ ngơi của Paul Doumer (toàn quyền Pháp). Từ thời triều
Nguyễn, nơi đây là pháo đài Phước Thắng, chính quyền Pháp ở
Đông Dương đã san bằng pháo đài và xây dựng dinh thự nghỉ mát
này cho các vị Toàn quyền Đông Dương. Dinh thự được phê duyệt
xây dựng và đặt tên theo vợ của Paul Doumer, sau này được đổi
tên thành Bạch Dinh vì cả tòa dinh thự chỉ có màu trắng.
Tháng 9/1907, nơi đây trở thành nơi giam lỏng cựu hoàng Thành
Thái và cựu hoàng Duy Tân hơn 10 năm. Sau khi 2 người bị đầy ra
đảo, nơi đây tiếp tục trở thành nơi nghỉ mát của các toàn
quyền. Năm 1934, nơi đây được sử dụng làm cho Bảo Đại và Nam
Phương hoàng hậu. Sau đó, là nơi tĩnh dưỡng cho những nhà lãnh đạo
VNCH, nguyên thủ của Việt Nam Cộng Hòa. Sau năm 1975 khi đám côn đô
ác ôn CSVN ăn cướp miền Nam, nơi đây dược khai thác là nơi du lịch để́
tuyên truyền như nhiều địa danh khác bị bẻ cong lịch sử. Vị trí tọa lạc
ở số 10 đường Quang Trung ven biển nối dài, thành phố Vũng Tàu
4. Khu di tích Đình Thắng Tam
Tại khu di tích này, ngoài Ngôi Tiền Hiền và Lăng Ông Nam Hải, miếu Bà
Ngũ Hành còn có ngôi miếu Bà, tọa lạc trên một hòn đảo nhỏ, nằm chông
chênh, nhô ra trước mặt biển. Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam Vũng Tàu được
xem là một trong những sản phẩm du lịch tâm linh của Bà Rịa Vũng Tàu,
thu hút đông đảo du khách, đặc biệt là những du khách nước ngoài. Vị trí: 77A đường Hoàng Hoa Thám, Phường Thắng Tam, Vũng Tàu.
5. Niết Bàn Tịnh Xá
Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường
nét kiến trúc hiện đại.Chùa “Niết Bàn Tịnh Xá” còn gọi là chùa “Phật
Nằm” được xây dựng trên sườn núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Chùa được khởi
công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên
góp của đồng bào phật tử. Thượng tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo
toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng
Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại. Vị trí: Đường Hạ Long,
phường 1, Tp. Vũng Tàu
6. Chùa Quan Thế Âm Bồ Tát Đây là ngôi
chùa nhỏ nổi bật với pho tượng phật Bà Quan Âm trắng cao 16m hướng ra
biển đứng trên tòa sen, tay cầm bình Cam Lộ, với khuôn mặt hiền hòa, đức
độ. Đây là một pho tượng đẹp và cũng là điểm tham quan của khách du
lịch ở Vũng Tàu. Vị trí: Chùa Quan Thế Âm Bồ Tát nằm trên đường vòng núi Lớn, thành phố Vũng Tàu, cách bãi Dâu 500m
7. Linh Sơn cổ tự
Tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng Linh Sơn Cổ Tự là ngôi chùa lâu đời
nhất ở Vũng Tàu. Trong chánh điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá
thếp vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ bi và sống động
trên nét mặt của đức Phật. Vị trí: 61 Hoàng Hoa Thám, Vũng Tàu
8. Hải đăng Vũng Tàu
Đến đây, sau khi men theo đường hầm được xây kiên cố trong ngôi nhà hai
tầng vốn là nơi cư trú và sinh hoạt của những người gác hải đăng bạn sẽ
lên đến đỉnh tháp. Từ đây, bạn có thể thu vào tầm mắt cả thành phố Vũng
Tàu ẩn hiện trong sương, các bãi tắm hình lưỡi liềm, núi Minh Đạm xanh
ngát. Hay nhìn xuống ngay bên dưới, cả rừng hoa sứ rực sáng làm nổi bật
nét kiên cố, vững chãi của toàn bộ cụm tháp. Vị trí: Nằm trên đỉnh núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu
9. Nhà Lớn (đền Ông Trần)
Nhà lớn Long Sơn hay Đền Ông Trần là một quần thể kiến trúc nghệ thuật
theo lối cổ, được làm bằng gạch ngói và các loại gỗ quí tọa lạc tại thôn
5, với tổng diện tích khoảng 2 ha, chia thành ba khu: đền thờ; nhà hội,
trường học, chợ, nhà bảo tồn Ghe Sấm và khu lăng mộ ông Trần. Vị trí:
Dưới chân núi Dứa, thôn 5, xã Long Sơn, Vũng Tàu. Đi thăm thắng cảnh nhiều ta mỏi chưn, oải quá xá, thôi bi giờ mình kiếm gì ăn đi nghen... Ẩm thực bánh khọt nổi tiếng khi đến Vũng Tàu
Hãy bàn về món Bánh khọt quê ngoại, một đặc sản nổi tiếng của đất nghỉ
mát khi đến Vũng Tàu. Bởi vì Vũng Tàu quê ngoại từ lâu đã được xem là
một điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du khách bởi những vẻ đẹp tự nhiên
của mình. Bên cạnh phong cảnh hữu tình, Vũng Tàu còn nổi tiếng với ẩm
thực, như nhiều loại thức ăn, như bún gỏi già đầu chợ trên trước cửa
tiệm photo Kim Phượng, quán hủ tiếu mì dách lầu của chú tàu Nhựt Ký,
quán kem Picnic của gia đình anh bạn Lân Picnic, món canh bông súng và
cá dứa kho tộ ở quán Hồng Phượng ở Bãi Sau, quán cơm tây goût parisien
mé chợ dưới (moa quên tên quán rồi, nửa thế kỷ qua óc nào nhớ nổi (?
)hihi.. ), quán cơm Cư Ký có món cá hồng chiên xù, món cá lưỡi trâu hấp
hành gừng, oh là la,...Ở Simsbury (CT), Dover (NH), Boston MA),
Kingstown (RI),... báo chí vùng New England khoe tùm lum là nước Mỹ có
món creamy clam chowder ngon khỏi chê; Sorry buddies mấy ông báo gia USA
có hưởng món cháo hàu tươi ở Vũng Tàu Quê Ngoại Tôi chưa. Nếu chưa thì
món cháo hàu tươi ở quê ngoại moa chả thua món creamy clam chowder của
mí sừ đâu nhé. Món creamy clam chowder có chứa dairy fatso substance,
món cháo hàu tươi ở quê ngoại moa có tiêu ớt hành gừng, nên xơi vào bổ
phổi, ngăn ngừa căng-xe, đề phòng chứng tim mạch, lại con đươc slim
body, chua kể yếu tố tuyêt chiêu "ông ăn ba khen" hay "bà xơi ông khỏe",
vì hào, hàu mà, hàu là same as hào hùng, hào khí, hào lực, sung túc,
sung trận, sung mãn nhé. Ồ, kỷ niệm quê ngoài còn nhiều và nhiều. ***
Đặc biệt, khi nhắc đến địa điểm du lịch Vũng Tàu, bạn lái xe Sài Gòn -
Vũng Tàu ít giờ hơn lái xe Bolsa- San Diego hay đoạn đường Houston -
Dallas, hoặc khoảng cách từ DC về New York nhé. Nói về Vũng Tàu quê
ngoại không thể không nhắc đến món bánh khọt, một món ăn đặc sản vô cùng
bình dị - dân dã nhưng mang đậm nét nhung nhớ của hệ quả Pavlov thèm
thuồng nhỏ dải một thuở thiếu thời, mà hôm nọ tôi kể cho bà chị hoa khôi
Hồng Hoa của sân trường Châu Văn Tiếp những kỷ niệm tại Vũng Tàu quê
ngoại... "Quê ngoại tôi ở Vũng Tàu mà quê nội lại ở tỉnh Tây
Ninh, nên ngày xưa khi hè về anh em chúng tôi được luân phiên chia làm 2
tốp, nếu tốp này về thăm nội, tốp kia thăm ngoại, như thế hoán chuyển
mỗi mùa hè khi được bãi trường hay nghỉ học. Cả hai địa danh này đều cho
tôi nhiều kỷ niệm êm đềm đáng nhớ về sông rạch, về biển cả và cá, đặc
biệt cá có râu whiskers. Tôi còn nhớ những ngày hè trước năm 75, khi
quân đội đồng minh Mỹ và Úc đến vùng biển Vũng Tàu, thì nơi đây có sinh
hoạt kinh tế rất sinh động, phồn thịnh và tấp nập. Ở tuổi trẻ thích vui
khi được về Cấp, tôi theo ông ngoại tôi ban đêm ra Cầu Đá trước Ty Bưu
Điện ở bãi trước Vũng Tàu câu cá đến khuya 1 hay 2 giờ sáng. Miệt biển
có loại cá dứa tương tự như cá bông lau sông rất ngon. Thú câu đêm rất
vui, hai ông cháu đèo nhau trên xe gắn máy ra biển. Để phòng cái lạnh về
khuya tôi nhớ tôi trang bị cho mình chiếc quần blue jean dầy và khoác
áo xanh lá cây treillis thật ấm của quân đội Hoa Kỳ những lần câu đêm
như vậy. Sau khi thả mồi nhìn biển cả xa xa tâm hồn thư thái, an nhàn vô
cùng, gió biển vào hè mát lạnh khi trời càng về khuya, thỉnh thoảng tôi
ngó phao xem có cá cắn câu chưa. Đèn pha của ngọn hải đăng từ trên núi
thỉnh thoảng quạt một vệt sáng trên trời, không trung có hàng triệu vì
sao lấp lánh, những tinh tú ẩn hiện tận chân trời xa xăm cho thấy vũ trụ
thật bao la. Giựt mình trong phút giây mộng mị vì cá lớn đã cắn câu và
run mạnh cần, tôi vội xoay nhanh ghì cần kéo cá lên. Ồ, một chú cá dứa
thật to. Có hôm ông cháu chúng tôi câu đựơc bốn, năm con cá dứa và nhiều
cá mú đá màu xám hay mú lửa màu đỏ, rồi có hôm có cá ngộ halibut rất
ngon. Bà ngoại tôi nấu ăn rất khéo. Bà nấu canh súng cá dứa, cá dứa
chưng tương hoặc cá dứa kho me. Tôi không biết món canh súng tiên khởi
phát xuất từ tỉnh nào, nhưng chỉ biết nhà ngoại tôi thường ăn món này.
Trong nước lèo nêm canh súng có tương đen (hoisin sauce), đậu phọng rang
giã nhỏ, xã băm, hành hương, tỏi phi và nêm thêm gia vị căn bản nước
mắm, đường. Các loại rau độn có bạc hà, ngó sen chẻ cọng, giá và rau ngò
om. Những khứa cá dứa thật ngon và béo ngậy. Tôi cũng được nghe về loại
cá ngát, một giống whiskers nhưng lại sống ở vùng nước lợ ranh giới của
nước sông và nước biển như Bà Rịa hay Cát Lở. Tựu trung thì Vũng Tàu
vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm, nhưng thú câu cá về đêm vẫn hấp dẫn tôi nhiều
hơn cả..." Trở lại món Bánh khọt là đặc sản nổi tiếng của ở đất
Vũng Tàu, bạn có biết tên bánh khọt từ đâu ra không. Theo người dân địa
phương gọi là bánh khọt bởi khi lấy bánh ra khỏi khuôn, người ta dùng
loại muỗng dẹt và dài để “khẩy” lên cho bánh trốc, muỗng dẹt lại va chạm
vào thành khuôn phát ra tiếng kêu “khọt khọt”. Thuyết thứ 2 một ngư dân
đi biển về trúng mùa tôm, bà vợ ông chiên bánh xèo, ăn xong món "xèo
xèo" ớn quá mạng, bà bếp này chế ra món bánh khọt, ông chồng thấy ngon
quá ăn đến căng dạ dày, nên mắc ách bèn "khạc khạc" ra, ông chồng nghẹt
cổ họng vang thành tiếng "khọt, khọt". Thế là món ngon bánh khọt chào
đời. Bánh khọt được xếp vào hàng ẩm thực dân dã nên nguyên liệu
để làm bánh cũng không có gì cầu kỳ, khó kiếm. Được làm từ bột gạo, thế
nhưng lại không giống như các loại bánh làm từ bột gạo khác, bánh khọt
chỉ được làm từ một thứ bột gạo và không pha cùng nước cốt dừa hay bất
cứ một thứ bột nào khác. Cách làm bánh khọt giòn, mềm tuy không cầu kỳ
nhưng lại cần sự tỉ mỉ và tinh tế cả. Chế biến bánh khọt quan trọng nhất
vẫn là ở phần pha bột, đòi hỏi một bí quyết riêng cũng như sự khéo léo
từ đôi bàn tay của đầu bếp như Hồng Hoa, Kim Phượng, Hồng Mai
Sophie,..., đây chính là phần khó nhất quyết định đến vị ngon của bánh.
Bột gạo được pha với nước theo một tỉ lệ nhất định. Nếu pha đặc quá,
bánh sẽ bị đặc và bở; còn nếu bột lỏng quá thì bánh sẽ mỏng, quà mềm
nhão và không phê hội chứng Pavlov, dở ẹc thôi. Chiếc bánh đạt tiêu
chuẩn là không quá dày cũng không quá mỏng, khi ăn giòn rụm nhưng vẫn
giữ được độ dai nhất định, bạn ta nhé. Đặc biệt, này bạn muốn
bánh ngon thì bột phải được xay ngay từ tối hôm trước, rồi để bột qua
một đêm, có như vậy bột mới không bị nhão, chảy và làm ra chiếc bánh
giòn ngon. Ở xứ ngoài ly hương, chả cần xay, các chủ chợ đã xay sẵn dùm
ta. Nhân bánh khọt được làm từ tôm tươi. Nhớ nhe không dùng tôm ma-dzê
Chinois HD981 sẽ mất ngon. Tôm được cắt bỏ đầu, lột vỏ, rửa bằng nước
sạch rồi để ráo. Ngoài phần nhân là tôm tươi, phần tôm cháy màu vàng làm
tăng thêm sự đẹp mắt, thơm ngon cho những chiếc bánh khọt thơm ngon
này. Mỗi nhân là một con tôm lõi, màu hồng của thân tôm nổi bật trên nền
bột trắng, thêm một chút bột tôm đỏ au rắc quanh đĩa tạo nên sự bắt mắt
cho người ăn. Màu hồng của nhân tôm tạo nên sự bắt mắt cho thực khách
khi ăn món bánh khọt Còn về phần đổ bánh khọt như thế nào để được
vàng đều, giòn rụm ngon hết biết, đó cũng là cả một nghệ thuật cao tay,
khéo léo dấu nghề nhé, đòi hỏi kinh nghiệm từ đôi bàn tay mát tay của
người đầu bếp. Bánh khọt được đổ trong những chiếc mâm bằng nhôm hoặc
bằng inox, bên trên bề mặt khuôn được tạo hình lõm nhỏ bằng chiếc bánh.
Nhớ nhé trước khi đổ bánh, người đầu bếp đặt khuôn lên bếp cho nóng,
sau đó dùng dầu olive còn trinh (virgin olive) mời ngon, dầu ma-dzê
Chinois HD981 pha 3 phần olive, 7 phần salad oil, coi như hỏng vì bị mất
trinh rồi nhé. Ban thoa dầu olive còn trinh đều lên các khuôn lõm, chế
một lượng bột vừa đến mặt khuôn, cho tôm tươi đã bóc vỏ vào giữa và đậy
nắp lại chờ đến lúc bánh chín, 2 hay 3 phút thôi nhé, để lâu khi bánh
cháy khét thì có thể là goût của anh 7 chà và ma ní tí te...Hynos.
Khi bánh vừa chín tới, đầu bếp ta lè lẹ gắp bánh ra đĩa, rắc lên bề mặt
một ít tôm hồng cháy, thoa mỡ hành tóp mỡ loại "no cholesterol". Khi ăn
bánh khọt Vũng Tàu quê ngoai, người dân địa phương thường ăn kèm với
nước mắm pha chua ngọt, rau sống các loại như cải bẹ xanh con, rau xà
lách, tía tô, diếp cá… riêng moa thích thêm húng quế, kinh giới và đu đủ
và cà rốt ngâm chua thái lát. Nào, bạn hãy gắp một cái bánh khọt cho
vào một lá cải bẹ xanh con, cùng một ít rau thơm và các thứ ăn kèm, sau
đó cuốn lại, chấm vào chén mắm ớt, để vài cọng đồ chua nằm trên cuốn
bánh. Cắn một miếng, thực khách sẽ cảm nhận hệ quả Pavlov hòa quyện vị
giác của hàng triệu tuyến kinh huyệt trên lưỡi nhảy let's twist again
cùng những hương vị chiên rán thơm ngát tuy rất dân dã nhưng ngon hết
biết nhé. Vì vị thịt tôm bùi bùi hòa quyện với sự giòn giòn của bột,
thơm thơm của mỡ hành cùng một ít vị chua của đồ chua, mặn của nước mắm
hòa vào hương vị đặc trưng của các loại rau… Một thoáng quê ngoại khiến
bụng tôi đói meo mà cha y sĩ dặn tôi phải nốc sữa Ensure cho tròn trịa,
ông bảo tôi ốm nhách "goût de convalescence" da bọc xương. Hương vị của
bánh khọt quê ngoại gần nửa thế kỷ xa cách vì ta mang máu thù dzai bọn
giặc veecees ta không về, Hồng Mai ơi Hồng Mai, thà ta order xơi bánh
khọt Bolsa của em cho đỡ nhớ nhà, nhớ quê ngoại quê ta. Sau đây
xin biên đôi dòng một số quán xưa trong ký ức lão niên những quán bánh
khọt mà bạn nên ghé qua khi đến Vũng Tàu. Bạn nói quê ngoại bạn ở Cap
Saint Jacques mà bạn chưa hề ăn qua Bánh khọt Gốc Vú Sữa, tôi cho là bạn
còn nhà mùa quá sức.. Xem sau nhé
Bánh Khọt gốc vú sữa Quán
tọa lạc ở số 14 Nguyễn Trường Tộ, phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu. Bánh khọt ở đây được rất nhiều thực khách yêu mến bởi lẽ
nhân bánh có một con tôm to tổ chảng ăn hoài chả ngán, tôm tươi ngon,
phần bột cũng vừa ăn, nước mắm chấm ngọt vừa miệng nhé, madame Sophie
Hồng Mai, một thực khách sành ăn trước 75 ghé Bánh Khọt gốc vú sữa về
cọp dê recette, madame làm bánh khọt khá ngon. Nhưng tôm tươi Vũng Tàu
madame thế bằng tôm Ecuador, Mississippi,... nên thiếu goût ngon miệt
biển Vũng Tàu quê ngoại. Về rau sống ăn kèm luôn tươi sạch, organic
style. Quán lúc nào cũng đông khách và nhân viên quán phục vụ chu đáo,
nhớ gởi "bo", típ kha khá nghen. Tui theo cậu 2 xếp sòng Hiến Binh Trần
Công (Virginia), cậu Hải KQ A37 Pilote, cậu Trọng Camouflaged Mike Force
ghé quán này súc miệng điểm tâm, lót dạ vào buổi sáng thiệt sớm hoặc
lúc giữa trưa chiều 2-3PM khi đó mới có bàn VIP cho băng l'amour vì
khách còn ngủ hay khách đang say sóng tắm biển Thùy Văn hay Thùy Dương,
phe ta tha hồ ăn Bánh Khọt gốc vú sữa, kèm vài caisse bia 33 chai nhỏ
thôi, chai lớn la de Larue Con Cọp (Bière Larue Tigre) nốc vô e sợ
"chien mange la soupe sucrée" (dog eats sweet soup, ché en chò) thì Bánh
Khọt gốc vú sữa tuôn ra mồm hết, sẽ mất ngon. Giờ peak time, prime time
băng l'amour nhiều khi bị mất bàn VIP ở những lúc vào buổi trưa chiều
5PM đến chiều tối 8PM, weekend đông nghẹt thì khỏi nói. Sorry José hết
chỗ. See you later Alligator !!! https://www.youtube.com/watch?v=Ch1UQ47rWKU Bánh khọt Bà Hai
Quán nằm ở số 42 Trần Đồng, phường 3, thành phố Vũng Tàu , tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu. Theo thực khách đánh giá thì bánh khọt ở đây mềm, béo, con
tôm to, tươi ăn giòn chứ không mềm nhũn. Dầu mỡ có nhưng ít, ăn kèm với
rau rất vừa miệng, không ngán. Do quán khá đông khách cho nên có phần
nóng và hơi chật, nhưng bù lại đội ngũ nhân viên phục vụ rất nhiệt tình
và nhanh nhẹn, hơn nữa giá cả cũng khá bèo so với những địa điểm ăn uống
khác. Bánh khọt Cây Sung Địa chỉ: Số 19 Hoàng Hoa Thám,
phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Bánh khọt ở đây
không nhiều dầu, bánh giòn, tôm tươi ngon. Theo kinh nghiệm của thực
khách khi đến đây, bạn nên ăn kèm với đĩa rau sống và đu đủ ngâm chua.
Không gian quán khá rộng, tuy nhiên nếu quá đông khách việc chờ đến
phiên mình hơi oải đó nghen, dặn trước thôi.Co giờ qưởn nên ghé qua thăm
Bánh khọt Cây Sung.
Bánh khọt Cô Ba Vũng Tàu Quán nằm tại số
1 Hoàng Hoa Thám, phường 3, thành phố Vũng Tàu,tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bánh khọt ở đây có nhiều nhân và giòn, rau ăn kèm cũng nhiều, nhìn tươi
và sạch sẽ. Nước chấm được nêm nếm khá vừa miệng. Đặc biệt, không gian ở
đây được trang trí rất mộc mạc, đơn giản với những bộ bàn ghế gỗ, mang
lại cảm giác gần gũi thân quen cho thực khách. Tuy nhiên giá cả ở đây có
phần bèo tí ti hơn những quán bánh khọt khác. Bạn nên đi cùng gia đình
hoặc bạn bè để tiết kiệm chi phí khi mà mình bạn khó có thể ăn hết một
đĩa bánh ở đây, hơn hết bạn có thể thưởng thức thêm nhiều món ăn khác ở
quán. Ở quán Bánh Khọt Cô Ba Vũng Tàu, ẩn chứa sâu bên trong những chiếc
bánh khọt giản dị đó là cả một nghệ thuật và tinh tế không dễ diễn đạt
bằng lời. Có thể nó nằm trong cách pha chế bột vô cùng thủ công gia
truyền, bí kíp khéo léo, này bạn len lén vào bếp liếc nhìn chả thể cọp
dê được recipe đâu nhé. Cô Kim Phượng của tui hướng đầu chợ trên hướng
các tiệm danh trấn Tây Hồ, Cư Ký, Tuấn Ký, Nhựt Ký,... cho biết món bánh
khọt này chứa đựng ở nhân bánh, bí kíp pha chế từ hải sản là món tôm
tươi ngon đặc sản "rất" goût biển Vũng Tàu. Cũng có thể hương vị đặc
biệt ấy nằm ở món nước chấm đậm đà được pha chế từ nước mắm chánh hiệu
của địa phương Vũng Tàu quê ngoại ngon ơi là ngon, ngon hết sẩy cào cào.
Một buổi chiều lộng gió, được ngồi bên đĩa bánh khọt nóng hổi, thưởng
thức hương vị thơm ngon, đậm đà của món ăn vừa ngắm cảnh đẹp của thành
phố biển khi chiều về thì không còn gì bằng. Và nếu một lần đặt chân đến
địa điểm du lịch Vũng Tàu, bạn đừng quên thưởng thức món bánh khọt bình
dị ngon nức tiếng, vị bánh dân dã, đậm nghĩa, đậm tình của con người
mảnh đất này.
Vinh Danh Em, bài thơ tưởng niệm em Géza Kindernay
13 tuổi, ngã gục ngày 7 tháng 11 năm 1956 tại Budapest
Đôi lời cùng bạn đọc Bài thơ "Vinh Danh Em" của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo
Việt được viết 60 năm trước đây. Viết sau khi các sư đoàn hồng quân gồm
có khoảng 200 ngàn lính và hơn 2000 chiến xa sô viết tràn ngập đất nước
Magyar, đàn áp trong máu lửa cuộc Kháng Chiến giành Độc Lập Tự Do phát khởi từ Budapest. Cuộc Kháng Chiến tự bộc phát cũng là cuộc Cách Mạng "Dân Tộc-Dân Quyền-Dân Sinh" Hung Gia Lợi.
Trong biến cố lịch sử bi hùng đó, có ít nhứt hai vạn người dân nổi dậy ở
thủ đô, phần đông là sinh viên và công nhân, đã bị thảm sát, mất tích
hoặc tử thương ngay trên khắp các khu phố từ trung tâm Budapest ra ngoại
biên và các thành phố khác. Chưa kể hàng chục ngàn người bị bắt giam,
tra tấn, hành quyết nhiều năm sau. Từ hai đến ba trăm ngàn người phải
vượt biên tị nạn để thoát khỏi cuộc lùng bắt của quân xâm lược và tay
sai bản xứ. Tham gia cuộc Đại Vận Hành của Lịch sử là những người yêu
nước, đa số còn rất trẻ, khao khát tự do dân chủ và công bằng xã hội.
Thế hệ trẻ Hung Gia Lợi đã nhiệt thành dấn thân, tự nguyện, chấp nhận số
phận rủi ro, kể cả sự hy sinh tuẩn tiết chỉ vì họ không thể chịu đựng
được nữa những sự lừa dối hàng ngày của giới lãnh đạo cộng sản cũng như
sự khiếp sợ công an mật vụ đã từng chế ngự gia đình hoặc bản thân họ từ
còn bé nhỏ. CuộcTổng khởi nghĩa bùng nổ tại Budapest từ ngày 23 tháng 10 năm 1956. Biến
cố đã xảy ra sau khi Tổng bí thư đảng cộng sản từ chối đáp ứng 16 điểm
Yêu sách ghi trong Quyết Nghị của tập thể Sinh viên họp Đại hội ngày 19
tháng 10 năm 1956. Thêm nữa, còn cấm họ tập họp biểu tình, cùng với công
nhân và các thành phần xã hội khác đến đặt vòng hoa tại chân tượng
những anh hùng dân tộc Hung Gia Lợi. Trong Quyết Nghị Yêu sách về Chính
Trị, Kinh Tế và Ý Thức Hệ, một số điểm viết như sau: (1) Chúng tôi đòi
quân đội sô viết rút lui tức khắc...(2) Chúng tôi đòi bầu các lãnh tụ
mới của đảng bằng phiếu kín... (5) Chúng tôi đòi tổ chức tổng tuyển cử
trên toàn quốc với phương thức phổ thông đầu phiếu, bỏ thăm kín và có sự
tham gia của nhiều đảng chính trị để bầu một Quốc hội mới. Chúng tôi
đòi công nhân có quyền đình công...(12) Chúng tôi đòi toàn diện quyền tự
do ngôn luận và phát biểu, tự do báo chí và tự do phát thanh vô tuyến,
một tờ báo mới cho Liên Hội các đoàn thể sinh vỉên trung học và đại học
Hung Gia Lợi... (13) Chúng tôi đòi dời đi càng sớm càng tốt pho tượng
Staline, biểu tượng của chế độ chính trị áp bức tàn bạo kiểu Staliniste
và dựng lên tại chỗ đó Tưởng Niệm Đài xứng đáng với các vị anh hùng liệt
sĩ hy sinh cho Tự do và Dân tộc Magyars... (15) Tuổi trẻ Đại học Kỹ
thuật Budapest đồng thanh bày tỏ tình đoàn kết trọn vẹn với công nhân và
tuổi trẻ Ba Lan và Varsovie có quan hệ với Cao Trào Độc Lập Quốc Gia Ba
Lan. Đó là cuộc Cách Mạng của Niềm Tin và Hy Vọng khôi phục Độc Lập,Tự Do, Dân Chủ và Phẩm Giá Con Người.
Cuộc Tổng Khởi Nghĩa bị thất bại đau thương vì ‘’tuổi trẻ thanh xuân’’
Budapest làm sao có thể trường kỳ đối kháng chống lại xích sắt chiến xa
và hỏa lực đại bác của đế quốc siêu cường Liên Sô. Nhưng tinh thần
Budapest Magyar kiên cường bất khuất không thất thủ. Gia tài trân quý
của những chiến sĩ Tự Do Hung Gia Lợi xây dựng từ nửa thế kỷ trước đã
được gìn giữ bảo quản nguyên vẹn trải qua bao nghịch cảnh khốc liệt.
Những hạt mầm của Niềm Tin và Hy Vọng không hề bị hủy diệt. Và những
người sống sót, và thế hệ tương lai, âm thầm tiếp thay... Cho nên
đến năm 1989, một mùa Xuân mới nở hoa thơm, với bầy chim nhộn nhịp trở
về, chân son không khoen sắt, giọng hót thơm nức niềm hân hoan. .. Trở lại Budapest, 10 năm trước, vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50 năm Kháng Chiến Cách Mạng 23.10.1956 – 23.10.2006, bài thơ Vinh Danh Em đã
được dịch ra tiếng Hung Gia Lợi và phổ biến đến nhiều bạn hữu và bạn
đọc của một số tập san tạp chí trên đất nước Magyar. Tuần báo phát hành
toàn quốc Magyar Világ (Thế Giới Hung Gia Lợi)số ra ngày 20 tháng 4 năm 2006 đã đặc biệt giới thiệu bài thơ Vinh Danh Em dưới tựa đề : Tiếng tăm vang dội thế giới của cuộc Cách Mạng và cuộc Kháng Chiến giành Độc Lập Hung Gia Lợi năm 1956. ‘’Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, rất đông người đi tị nạn
lánh xa chế độ cộng sản. Trong số đó có nhà thơ lưu vong Nguyên Hoàng
Bảo Việt. Ông còn giữ lại nhiều dấu vết ghi sâu đậm trong trí nhớ về
cuộc Cách Mạng Hung Gia Lợi năm 1956. Thuở ấy, tại Pháp, ông gặp người
bạn István Kindernay, sau này là Tổng Thư ký Liên đoàn Thế giới Chiến sĩ
Hung Gia Lợi tại Âu châu. Istvan Kindernay kể cho nhà thơ Việt Nam tị
nạn cộng sản biết về đứa em trai của ông. Géza Kindernay (13 tuổi) đã
chiến đấu và tử thương như thế nào trong những trận đánh chống quân đội
sô viết tại Budapest. Câu chuyện đó đã tạo nên nguồn cảm hứng cho Nguyên
Hoàng Bảo Việt viết một bài thơ để vinh danh người anh hùng trẻ tuổi
Hung Gia Lợi. Đó là bài thơ Vinh Danh Em đăng dưới đây’’. Hội ngộ với Budapest Hung Gia Lợi vào những Ngày Tháng Lịch Sử càng làm cho chúng ta thương nhớ hơn nữa Sài Gòn Huế và Hà Nội đang ở trong vòng kiềm kẹp trấn áp khắc nghiệt của bạo quyền Cộng sản. Chúng ta thương nhớhơn nữađồng
bào, bà con, anh chị em, bạn hữu bất hạnh và thiếu may mắn bị buộc phải
sống mấy thập niên dưới một chế độ phi nhân phi nghĩa, dối trá, gian
hiểm và hung bạo chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam. 60 năm sau Cách
Mạng Budapest, Quyết Nghị 17 điểm Yêu sách của tập thể Sinh viên Hung
Gia Lợi tiếp tục là đầu đề thời sự hàng đầu đối với nhiều dân tộc trên
thế giới. Chúng ta đọc để xác tín rằng đảng Cộng sản Việt Nam cho tới
ngày hôm nay vẫn còn là một đảng chư hầu, trung thành tuyệt đối và mù
quáng với các bóng ma Lénine, Staline và Mao Trạch Đông, đồng chí quan
thầy vĩ đại của Hồ Chí Minh. Nhưng tấm gương tinh thần kiên cường bất
khuất của bạn hữu Hung Gia Lợi cho phép vững tin vào tiếng nói cuối cùng
của lương tri nhân loại. Sẽ chẳng còn bao lâu nữa. Những người sống sót
và thế hệ tương lai luôn luôn tiếp thay cho những chiến sĩ tranh đấu
cho Dân Chủ và Nhân Quyền chẳng may sớm khuất bóng hay ngã gục, hoặc
đang bị tù đày ngay trên quê hương yêu dấu. Để dân tộc Việt Nam được
sống một mùa Xuân thật Việt Nam, với bầy chim nhộn nhịp trở về, chân son
không khoen sắt, giọng hót thơm nức niềm hân hoan… Genève ngày 23 tháng 10 năm 2016 Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse Vietnamese League for Human Rights in Switzerland Vinh Danh Em Tưởng niệm Géza Kindernay, 13 tuổi, ngã gục ngày 7 tháng 11 năm 1956 tại Budapest
Bằng chứng nơi vũng máu Bằng chứng nơi dấu đạn Em mang trên thịt da Em mang trong tâm hồn Em đã chết trước giờ hẹn gặp anh Em bỏ anh em bỏ cuộc đời Lúc tuổi em lúa đang ngậm sữa Anh thường ví em như sớm mai Vừa hừng đông sao nắng tắt Không kịp nhìn cỏ biếc trời xanh Em đã chết trước giờ hẹn gặp anh Chưa được áp trái tim vào lòng tay bằng hữu Những điều sinh thời em thắc mắc Anh vẫn đau khổ đây em Cuộc đời vốn không phản trắc Như hàm răng nhọn sau chúm môi Cuộc đời cũng không hiểm độc bất công Như bóng đen núp bên trong con người Nhưng anh nhớ sao anh nhớ rõ Tưởng mới đêm qua tưởng mới sáng nay Mưa sắt thép Mưa máu lửa tầm tã Em vươn khỏi hầm núp Trên hành lang ngổn ngang gạch ngói Bừa bãi vỏ đạn mảnh trái phá Đi giữa những xác chết người hấp hối bị thương Trên thân thể em mưa xối xả Áo lông áo giáp không một manh Để sưởi để che ngực chim ốm yếu Chỉ còn lòng tin Thật sự chỉ còn lòng tin Thổi lửa sao lên đôi mắt Với nhánh củi úa màu mây cuối thu Sao anh chóng quên được hở em Từ những lối ra ngoại ô Dưới gầm cầu đúc Hai bên bờ Danube xanh lơ Trên vai trên nhịp cầu sắt Dưới nóc tháp lầu chuông Trong sân trường xưởng thợ Bốn phía công viên Năm bảy kẻ đã quen biết em Nhưng số đông em chưa hề gặp gỡ Bởi không chịu được tủi cực nhiều hơn nữa Và nghe thấy tiếng dội từ những bước em đi Tất cả không hẹn đều có mặt Số phận họ ra sao Xin đừng ai hỏi thêm Trước những nắm tay trần Trước những cặp mắt từ chối sợ hãi Và hơi thở khỏe và trái tim trong Đang đối diện đại bác chiến xa Họ biết họ sẽ ngã gục Người này nằm xuống người kia chỗi dậy Không thuốc súng không lưỡi lê Họ ôm lấy tấm lòng quả cảm Họ ôm lấy cuộc đời lớn lao Nguyên vẹn kiếp sống vô giá Họ điềm tĩnh đi tới Cũng như em Cố nhiên là dưới cơn mưa Hay đúng hơn dưới cơn dông lịch sử. Em đã chết giữa tuổi thiếu niên Em đã chết trước giờ hẹn gặp anh Thật vô lý Thật bất công Khuôn mặt trái tim anh ướt đẫm Không chỉ bởi cơn mưa Dù là mưa máu lửa sắt thép Dù hôm qua đã trôi vào kỷ niệm Và những người sống sót Và thế hệ tương lai Đang âm thầm tiếp thay em Từ hôm ấy Anh luôn luôn nghĩ tới Một mùa Xuân Với bầy chim nhộn nhịp trở về Chân son không khoen sắt Giọng hót thơm nức niềm hân hoan Có thể của hoàng oanh hay vành khuyên Có thể của sơn ca hay họa mi Cũng có thể chỉ là suối cười trẻ con Bởi nhớ thương ai Anh đã yêu thêm một xứ sở Ngoài tổ quốc của anh Dù không phải nơi chôn nhau cắt rún Anh xin được gọi quê hương em Hung Gia Lợi là bạn thân của Việt Nam Bởi nhớ thương ai Anh đi qua tuổi thanh xuân Nhiều đêm không ngủ được Biết không em biết không em
Nguyên Hoàng Bảo Việt (1956)
(Trích Tập Thơ Những Dòng Nước Trong . Văn Nghệ Sài Gòn 1962)
Trong
thời đại toàn cầu hóa ngày nay, có những giá trị văn hóa mang tính phổ
quát nhưng mang tính đặc thù của từng dân tộc. Một trong những giá trị
ấy là ẩm thực. Đối với Hungary, một xứ sở nằm giữa lòng Đông
Âu, ẩm thực là một trong những niềm tự hào của người dân nước này. Ẩm
thực truyền thống của Hung được đặc trưng bởi những vị đặc biệt và những
gia vị mạnh, do đó, nhiều món rất thích hợp với khẩu vị của người Việt,
và những thực khách “sành điệu”. Các bà nội trợ của Hung có thể sử dụng
thành thạo vài chục loại gia vị và nhiều kỹ thuật nấu nướng, họ cũng
khéo tay và giỏi gia chánh không kém gì phụ nữ Việt Nam ta. Traditional Hungarian GulyasẨm
thực ngày nay của Hungary được nhận định là khác hoàn toàn với những
tập tục ăn uống và nấu nướng của dân Hung thời lập quốc, cách đây 1.100
năm. Chẳng hạn, vào thời đó, ớt, một loại gia vị đặc thù và thông dụng
nhất của Hung, còn chưa được biết đến ở Hung. Sự hình thành và
phát triển của ẩm thực Hung diễn ra liên tục, trong khi đánh mất một
phần tính chất cổ sơ, ẩm thực Hung trở nên quốc tế hơn và vẫn giữ được
những vị đặc thù của mình. Nhiều món ăn Hung bắt nguồn từ thời chinh
chiến với Thổ Nhĩ Kỳ, một đế quốc hùng mạnh thời Trung cổ tại châu Âu,
và trạng thái cuối cùng, “ổn định” của nền văn hóa ẩm thực Hung có được
vào thế kỷ XIX. Những đặc điểm chủ yếu của ẩm thực Hungary là gì? Đầu
tiên, phải nói đến 3 nguyên liệu quan trọng nhất và căn bản nhất của ẩm
thực Hung, đó là mỡ, hành và ớt. Hung có rất nhiều món ăn nổi tiếng
dùng hành chưng mỡ làm “nền”, đó là các món kho và nấu với loại ớt đặc
biệt của Hung; tùy theo thời gian chưng hành mà thức ăn có nhũng vị đặc
thù khác nhau. Rất nhiều món ăn Hung sử dụng sữa chua, nhờ sữa chua để
tạo ra vị thơm ngon và béo ngậy. Bản
thân nước Hung cũng có những sản phẩm nổi tiếng thế giới trong công
nghiệp thực phẩm. Hung là một trong vài nước dúng đầu thế giới về xuất
khẩu trứng và gia cầm, gà của Hung có vị ngon được bán ở nhiều nước. Ớt
của Hung, cũng như gan ngỗng, là món quý, đặc sản và sang trọng ở nhiều
nước. Xúc xích, lạp xường và thịt mỡ hun khói của một số vùng ở Hung
được biết đến ở rất nhiều nước châu Âu, tạo nên vị đặc biệt và không thể
bắt chước cho nhiều món ăn. Rượu vang của Hung – ở các vùng Hạ Sơn hay
Eger -, từ nhiều thế kỷ nay, đã được các vị hoàng đế Pháp coi như “tửu
vương”, hay “vương tửu”, một đánh giá rất vinh dự từ Pháp, xứ sở của các
loại rượu. Cũng như ở Việt Nam và nhiều nước khác, Hungary có
những tập tục ẩm thực khá kỳ lạ trong các kỳ lễ hội, mà đặc biệt là dịp
cuối năm, mùa Giáng sinh. Chẳng hạn, vào dịp đó, dân tình ăn nhiều đỗ,
đậu và cơm vì coi đó là những lại ngũ cốc đem lại tiền tài trong năm
mới. Thịt lợn quay cũng được ưa chuộng vì lợn được coi là con vật may
mắn. Ở nông thôn, trong các dịp mổ lợn, từ trẻ em đến người lớn đều
thích nắm đuôi lợn trong dịp Giáng sinh và năm mới để lấy “hên”. Đồng
thời, theo tập tục từ cả ngàn năm nay, trong mấy ngày cuối năm, dân bản
địa kiêng ăn gia cầm vì sợ vận may sẽ… bay đi mất! Ngoài ra, các
bà, các cô nội trợ rất hay nhào bột để làm mỳ sợi, bánh ngọt trong dịp
Giáng sinh: theo truyền thuyết, ai nhào bột thật dẻo, thật nhuyễn và kéo
được thành sợi mỳ càng dài, thì càng sống lâu và hạnh phúc. Tựu trung,
nói đến những ngày lễ hội ở Hung, đặc biệt là Giáng sinh hay Phục sinh,
là phải nói đến những bữa tiệc thịnh soạn trong gia đình và gia tộc, kéo
dài mấy ngày liền; đây là một truyền thống mà phần đông những người
đứng tuổi đều muốn duy trì, cho dù lớp trẻ cảm thấy “cổ lỗ”, bó buộc và
có thể không mấy thoải mái, hào hứng! Hỏi một người Hung về món ăn
đặc thù dân tộc của họ, thế nào họ cũng tự hào kể hàng loạt món nổi
tiếng như xúp thịt bò (gulyás), thịt bò kho, bắp cải nhồi thịt, thị gà
hầm với sữa chua và ớt và còn nhiều nữa. Tuy nhiên, truyền thống và nổi
tiếng nhất, được người Hung tự hào giới thiệu cho bạn ngoại quốc nhiều
nhất, vẫn là xúp cá (halászlé), không thể thiếu trên bàn tiệc những ngày
Noel và cuối năm. Hungarian Pancake – Hortobagy StyleCá,
nhất là cá chép, là món ăn được dân Hung rất ưa chuộng, có lẽ từ thời
lập quốc. Người Hung quan niệm rằng cá là món ăn “lành”, vì vảy cá đem
lại hạnh phúc và tiền tài, nhất là nếu ăn cá trong dịp Giáng sinh. Món
xúp cá của Hung, thuộc hàng những món ăn được nấu với ớt, thực ra mới
chỉ xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX, khi ớt bắt đầu thông dụng trong ẩm thực
châu Âu. Tuy nhiên, món ăn này đã rất nhanh chóng lan rộng ở Hung và
trong vòng vài chục năm, hầu như tại tất cả những miền quê lớn của Hung
đều đã có những cách nấu riêng cho mình. Xúp cá Hung, nói chính
xác hơn là một loại canh riêu khá đặc và cay, có vị đặc biệt, ăn cùng
với bánh mỳ hoặc mỳ luộc. Nếu muốn nấu món này một cách cầu kỳ, đúng
kiểu, phải có cá chép tại hai con sông lớn của Hung là Danube và Tisza,
kèm một loại ớt bột quý, được liệt vào hàng thương hiệu nổi tiếng của
Hung. cá chép được rửa sách, đánh vẩy, cắt thành những miếng dày chừng
hai ba phân; đầu và đuôi cá được hầm nhừ với nhiều loại cá khác trong
một nồi lớn. Để nước canh được trong, người ta thả hành củ vào
nồi. Sau khi đã cho mắm uối, ớt và một vài gia vị đặc biệt khác, nồi
canh được đun trên lửa nhỏ vài tiếng liền; cuối cúng, người ta mới thả
những khúc cá chép vào canh. Tùy từng loại xúp cá và các bà nội trợ có
thể gia giảm, cho thêm sữa chua, v…v…; đặc biệt, xúp cá nấu trong những
nồi kim loại khổng lồ ngoài trời, trong những dịp hội hè, liên hoan, sẽ
đem lại vị đặc biệt, mạnh và khác hẳn nấu trong nhà, trong nồi nhỏ.
Người sành món ăn này cho rằng xúp cá ăn ngon nhất là ở những bữa thứ
hai, ba khi đã được hâm lại nhiều lần! Hungarian Dobos CakeThực
ra, một khi đã coi một đất nước là tổ quốc thứ hai của mình, nói cái gì
cũng dễ thiên vị. Ẩm thực Hung có thực ngon hay không, điều đó, có thể
một lần trong đời, quý thính giả “Một giờ vòng quanh thế giới” sẽ có dịp
được chứng thực, và thưởng thức. Chỉ xin kể lại một mẩu chuyện nhỏ: một
người bạn thân của chúng tôi, sống tại thủ đô Vienna, Áo Quốc, đã mê
món xúp cá này đến nỗi, nhiều khi, nổi hứng “bất tử”, vào dịp cuối tuần,
chị tức tốc xin chiếu khán, ngồi lên con tài tốc hành liên vận Vienna –
Budapest, chỉ để có dịp thưởng thức món xúp ấy trong một tiệm đặc sản ở
thủ đô Hungary. Hy vọng sẽ có dịp cùng quý thính giả “Một Giờ Vòng Quanh Thế Giới” bên bàn tiệc với những món ăn đặc thù của xứ Hungary!
Photos:
1. Hungarian Gulyás made in Osaka, Japan, 2005, M Louis.2.Cubanelle
Peppers. USDA photo by Bill Tarpenning. 3. Hortobágyi palacsinta –
Hungarian filled pancake, Hortobagy-style, 2007, Themightyquill 4. Dobos
cake at Gerbeaud Confectionery Budapest, Hungary, 2007, Savannah
Grandfather. Featured Image: Magyar kenyér, Hungarian Bread, Takkk.
Vào năm 1941, Hungary tham dự cuộc xâm lược Nam Tư, chiếm được một số đất đai và tham dự vào Phe Trục trong quá trình đó (để phản đối, thủ tướng Pál Teleki đã tự sát). Vào 22 tháng 61941, khi quân Đức xâm lược Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa, Hungary tuyên chiến vào ngày 26 tháng 6, tham dự Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào cuối năm 1941, quân Hungary ở Mặt trận phía đông đã chiến thắng tại Trận Uman. Đến năm 1943, sau khi Quân đoàn Hungary thứ 2 chịu thất bại nặng nề tại sông Don, nhà nước Hungary tìm cách thương lượng đầu hàng quân Đồng Minh. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1944, để đối phó với sự trở mặt này, quân Đức lặng lẽ chiếm Hungary trong Chiến dịch Margarethe. Nhưng, đến bây giờ thì người ta biết rõ là người Hungary không muốn làm vệ tinh cho Đức. Vào ngày 15 tháng 101944, Horthy đã cố gắng yếu ớt để đưa đất nước ra khỏi cuộc chiến. Lúc này quân Đức mở Chiến dịch Panzerfaust và Horthy được thay thế bởi một nhà nước bù nhìn dưới quyền thủ tướng thân Đức Ferenc Szálasi. Szálasi và Đảng Mũi tên Chữ thập
thân phát xít của ông ta trung thành với quân Đức cho đến hết cuộc
chiến. Vào cuối năm 1944, quân Hungary ở Mặt trận phía đông lại chiến
thắng một lần nữa ở trận đánh Debrecen. Nhưng ngay lập tức sau đó là sự xâm lăng Hungary của quân độ Xô viết và trận đánh Budapest.
Trong khi quân Đức chiếm đóng vào tháng 5-6 năm 1944, Đảng Mũi tên Chữ
thập và cảnh sát Hungary đã trục xuất gần 440.000 dân Do Thái, đa số là
đến trại tập trung Auschwitz[8]. Cuộc chiến đã làm Hungary thiệt hại nặng nề và tổn thất 60% nền kinh tế làm tổn thất nhiều nhân mạng. Vào 13 tháng 2 năm 1945, thành phố thủ đô Hungary đầu hàng không điều kiện. Vào 8 tháng 5 năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu chính thức chấm dứt.
Thời đại Xô viết 1945-1989
Sau
khi Phát xít Đức thất bại, quân đội Xô viết đã chiếm đóng hầu hết đất
nước và qua ảnh hưởng của họ Hungary dần dần trở thành một nước cộng sản thân cận với Liên Xô. Sau năm 1948, lãnh đạo Cộng sản Mátyás Rákosi đã thiết lập chế độ theo kiểu Stalin với bắt buộc hợp tác xã hóa và kinh tế kế hoạch. Sự cầm quyền của nhà nước Rákosi đã vượt quá sức chịu đựng của người dân Hungary sau chiến tranh. Điều này đã dẫn tới cuộc chính biến tại Hungary 1956 và Hungary tạm thời rút lui khỏi khối Hiệp ước Warszawa. Liên Xô đã trả đũa mạnh mẽ với biện pháp vũ trang, gửi trên 150.000 quân và 2.500 xe tăng[9].
Gần một phần tư triệu người đã bỏ chạy khỏi đất nước trong khoảng thời
gian ngắn khi các biên giới để ngỏ vào năm 1956. Từ những năm thập niên 1960 đến cuối những năm thập niên 1980, Hungary thường được gọi một cách mỉa mai là "trại lính vui vẻ nhất" bên trong khối Đông Âu.[cần dẫn nguồn] Điều này xảy ra dưới thời cầm quyền độc đoán của nhà lãnh đạo mà vai trò còn nhiều tranh cãi, János Kádár. Người lính Xô viết cuối cùng rời đất nước Hungary vào năm 1991 và kết thúc sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Hungary.
Cộng hòa Hungary 1989-đến nay Trong cuối thập kỉ 1980, Hungary đã dẫn đầu phong trào giải tán Hiệp ước Warszawa và chuyển sang một thể chế dân chủ nhiều ứng cử viên. Điều này nghĩa là mặc dù có nhiều ứng cử viên, đảng cộng sản, MSZMP,
vẫn không được đem ra bàn cãi. Tuy nhiên, các ứng cử viên độc lập được
bầu lên để phản đối lại đảng. Vào thời điểm đó, áp lực cải cách tăng dần
từ bên trong đảng. Họ cũng di chuyển về phía một nền kinh tế thị trường. Vào 23 tháng 10 năm 1989, Mátyás Szűrös tuyên bố Cộng hòa Hungary thứ III và trở thành tổng thống lâm thời. Bầu cử tự do ở Hungary diễn ra lần đầu tiên vào năm 1990. Theo sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, Hungary phát triển một mối quan hệ gần hơn với Tây Âu cũng như các nước Trung Âu. Nước này trở thành một thành viên của nhóm Visegrad vào năm 1991, gia nhập NATO năm 1999, và trở thành một nước thành viên của Liên minh châu Âu vào 1 tháng 5 năm 2004.
Hungary nằm ở Trung Âu, Bắc giáp Slovakia, Đông giáp Ukraina và România, Nam giáp Serbia và Croatia, Tây giáp Slovenia và Áo. Địa lý của Hungary theo truyền thống được xác định bởi hai con sông chính: sông Danube và sông Tisza. Đất nước được chia thành ba miền địa lý: Dunántúl ("vượt qua sông Danube", Transdanubia),
Tiszántúl ("ngoại Tisza"), và Duna-Tisza köze ("giữa sông Danube và
Tisza"). Dòng Danube chảy theo hướng bắc-nam thông qua trung tâm Hungary
hiện tại, và cả đất nước này nước nằm trong lưu vực thoát nước.
Transdanubia, trải dài về phía tây trung tâm của đất nước cho đến Áo, là một vùng đồi núi chủ yếu với địa hình đa dạng bởi các ngọn núi thấp. Chúng bao gồm dải Alps
ở phía đông, Alpokalja ở phía tây của đất nước. Dãy núi Transdanubian ở
vùng trung tâm Transdanubia, dãy núi Mecsek và dãy núi Villány ở phía
nam. Các vùng đồng bằng Alfold ở bắc Transdanubia. Hồ Balaton và hồ Hévíz là các hồ lớn nhất ở Trung Âu và hồ nhiệt đới lớn nhất trên thế giới, cũng như ở Transdanubia. Kisalfold
trải dài trên hầu hết các khu vực phía đông và đông nam của đất nước.
Phía bắc của vùng đồng bằng là chân núi Carpathians gần biên giới
Slovakia. Kékes là ngọn núi cao nhất ở Hungary với độ cao 1.014 m. Theo WWF, lãnh thổ của Hungary thuộc vùng sinh thái của rừng hỗn giao Pannonian.
Hungary có 10 vườn quốc gia, 145 khu bảo tồn thiên nhiên nhỏ và 35 khu bảo vệ cảnh quan.
Khí hậu
Khí
hậu Hungary nằm trong miền khí hậu lục địa khô, mùa đông lạnh, mùa hè
nóng và ẩm. Chính kiểu khí hậu này tạo điều kiện cho sự phát triên các
thảm thực vật thảo nguyên phục vụ cho ngành chăn nuôi trên các đồng cỏ.
Lượng mưa lớn và giảm dần từ Tây sang Đông.
Môi trường
Ô nhiễm không khí; ô nhiễm đô thị và công nghiệp (hồ Balaton); vấn đề cải thiện môi trường khi gia nhập Liên hiệp châu Âu đòi hỏi một khoản đầu tư khá lớn (4 tỉ USD/ 6 năm).
Hungary theo mô hình Cộng hòa nghị viện. Tổng thống do Quốc hội
bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội 1 viện gồm 386 ghế, hình thành từ danh
sách trúng cử của các đảng có chân trong Quốc hội (phải đạt 5% tổng số
phiếu bầu hợp lệ trở lên) và các đại biểu thắng cử trực tiếp tại các khu
vực bầu cử. Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng
do Tổng thống đề cử từ đảng hoặc liên minh giành được đa số trong Quốc
hội và phải được Quốc hội bỏ phiếu thông qua. Các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề cử và Tổng thống bổ nhiệm.
Các đảng phái chính
Liên minh Công dân Hungary - FIDESZ, chiếm 263 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch Đảng: Viktor Orban; Đảng XHCN Hungary - MSZP, chiếm 59 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch Đảng: Atilla Mesterhazy; Phong trào vì một Hungary tốt đẹp hơn - JOBBIK, chiếm 47 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch: Gabor Vona; Đảng "Chính trị có thể khác đi" - LMP, chiếm 16 ghế trong Quốc hội.[cần dẫn nguồn]
Phân cấp hành chính
Hungary là một quốc gia thống nhất, được chia thành 19 hạt (megye). Ngoài ra, thủ đô (főváros) của nước này-Budapest, là một thực thể độc lập, không thuộc bất cứ tỉnh nào. Các hạt và thủ đô là 20 đơn vị NUTS cấp 3 của Hungary. Các tỉnh được chia tiếp thành 174 quận (járás) tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013[10].
Ngoài ra còn có 23 thị trấn có quy chế cấp quận (megyei jogú város).
Chính quyền địa phương của các thị trấn này đã mở rộng quyền hạn, nhưng
các thị trấn này thuộc về lãnh thổ của quận tương ứng thay vì là các đơn
vị lãnh thổ độc lập. Hội đồng quận và các đô thị có vai trò khác nhau
và trách nhiệm riêng biệt liên quan đến chính quyền địa phương. Vai trò
của các quận về cơ bản là hành chính và tập trung vào phát triển chiến
lược, trong khi các trường mẫu giáo, các công trình nước công cộng, xử
lý rác thải, chăm sóc người cao tuổi và các dịch vụ cứu hộ được quản lý
bởi các đô thị.
Từ năm 1996, các quận trên và thành phố Budapest đã được gộp lại thành 7
vùng nhằm mục đích thống kê và phát triển. Bảy khu vực này tạo thành
các đơn vị cấp hai của NUTS ở Hungary, bao gồm: Vùng Trung tâm Hungary,
vùng Trung Transdanubia, vùng Bắc Đồng bằng Lớn, vùng Bắc Hungary, vùng
Nam Transdanubia, vùng Nam Đồng bằng lớn, và vùng Tây Transdanubia.
Ngay từ những năm 1960, Hungary đã tìm cách tự do hóa nền kinh tế một cách giới hạn và từ năm 1990 đã chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường.
Gần 1/5 lực lượng lao động làm nông nghiệp, chủ yếu sản xuất ngô, lúa mì, kiều mạch, củ cải đường, hoa quả, hạt hướng dương và nho. Mặc dù có trữ lượng than đáng kể, Hungary vẫn phải nhập hơn một nửa số nhiên liệu. Có bô xít và khí tự nhiên. Du lịch và các ngành sản xuất thép, hoá chất, phân bón, dược liệu, máy móc và xe cộ đóng vai trò quan trọng; sản xuất điện năng đạt 35,104 tỷ kw/h, điện nguyên tử 35%, thuỷ điện 1%, tiêu thụ 33,317 tỷ kWh. Từ đầu những năm 1990, các xí nghiệp tư nhân được thành lập (80% GDP do tư nhân sản xuất ra) và đầu tư nước ngoài được khuyến khích thu hút 50% số dự án đầu tư nước ngoài vào khu vực Trung - Đông Âu)
Trong những năm 1990-1994, kinh tế lâm vào tình trạng khủng bố trầm trọng. Từ tháng 7 năm 1994, Chính phủ liên hiệp trung tả
đã điều chỉnh một số chính sách kinh tế theo hướng tích cực. Nền kinh
tế đang bước vào ổn định, thu nhập đầu người 91997) đạt 4.510 USD, tăng
trưởng đạt 4,7%; Xuất khẩu đạt 22,6 tỷ USD, nhập khẩu 25,1 tỷ USD; nợ nước ngoài: 27 tỷ USD.
Từ năm 1997, nền kinh tế bắt đầu đi vào quỹ đạo phát triển ổn định, GDP tăng trưởng 4-5%/năm. Từ cuối năm 2008, Hungary bị ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính thế giới, thâm hụt ngân sách cao (9,5% GDP), mỗi năm phải trả lãi nợ nước ngoài tới 4% GDP, gánh nặng an sinh xã hội cao nhất khu vực Trung Âu (60% GDP) và buộc phải đề nghị IMF hỗ trợ 25 tỉ USD để cứu hệ thống ngân hàng khỏi sụp đổ, đồng thời phải áp dụng các biện pháp khắc khổ. Năm 2009 nền kinh tế tăng trưởng âm 6,3%. Sang năm 2010, kinh tế Hungary đã phục hồi, thâm hụt ngân sách giảm còn 3,8%, lạm phát 4,5%, dự trữ ngoại tệ khá (45,7 tỷ USD), GDP tăng trưởng 0,8%. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp còn cao (11,5%), nợ nước ngoài nhiều (134,6 tỷ USD), nợ công lên tới mức 80% GDP.
Tính đến năm 2016, GDP của Hungary đạt 117.065 USD, đứng thứ 58 thế giới và đứng thứ 22 châu Âu.
Hungary quan hệ thương mại chủ yếu với các nước Châu Âu.
Năm 2010, xuất khẩu của Hungary đạt 93,7 tỷ USD, các mặt hàng xuất chủ
yếu gồm máy móc, thiết bị (chiếm 61%), các sản phẩm chế tạo khác
(28,7%), thực phẩm (6,5%), nguyên liệu (2%)... Các đối tác chủ yếu là Đức (chiếm 25,5% tổng kim ngạch), Italia (5,7%), Anh (5,4%), Pháp (5,4%), România (5,3%), Slovakia (5%), Áo
(4,5%). Nhập khẩu đạt 87,4 tỷ USD, các mặt hàng nhập chủ yếu gồm máy
móc, thiết bị (50%), nhiên liệu và điện (11%), thực phẩm và nguyên
liệu... Các đối tác chủ yếu là Đức (25%), Trung Quốc (8,6%), Nga (7,3%), Áo (6%), Hà Lan (4,7%), Pháp (4,5%), Slovakia (4%), Italia (4%), Ba Lan (4%).
Tính tới ngày 31 tháng 12 năm 2010, Hungary đã thu hút được 72,6 tỷ USD vốn FDI và đã đầu tư ra nước ngoài 20,5 tỷ USD.
Chính sách ODA
Từ năm 2004, Hungary bắt đầu dành ngân sách cho việc cấp ODA và ngân sách ODA năm 2010 đã đạt mức 0,17% tổng thu nhập quốc gia (GNI), đúng như cam kết với EU. Các lĩnh vực Hungary ưu tiên cấp ODA bao gồm: chia sẻ kinh nghiệm chính trị - kinh tế của Hungary, chuyển giao phần mềmcông nghệ thông tin, giáo dục, y tế, nông nghiệp, công nghiệpthực phẩm, xử lý nước, phát triển hạ tầng, vận tải, đo vẽ bản đồ, bảo vệ môi trường.
Tính đến năm 2011,[16] có 39% người Hungary là người Công giáo, 11,6% là Thần học Calvin, 2.2 là Giáo hội Luther,
khoảng 2% theo các tôn giáo khác, 16,7% là không theo tôn giáo trong đó
1,5% là người vô thần. Trong cuộc thăm dò ý kiến Eurobarometer năm
2005, 44% người Hungary đã trả lời họ tin rằng có một Thiên Chúa, 31% trả lời họ tin rằng có một số thế lực siêu nhiên, và 19% không tin rằng có một Thiên Chúa.[17] Đa số người Hungary đã trở thành Kitô hữu trong thế kỷ XI. Vua đầu tiên của Hungary là István I, trở thành vị vua phương Tây đầu tiên theo Công giáo, mặc dù mẹ của ông là Sarolt, được rửa tội theo nghi lễ Chính Thống giáo Đông phương. Dân số Hungary vẫn chủ yếu là Công giáo cho đến thế kỷ XVI, khi cuộc Cải cách Kháng Cách diễn ra do Luther đề xướng đầu tiên và ngay sau đó là John Calvin, đã đưa Kháng Cách trở thành phái Kitô giáo lớn trong dân số.
Trong nửa sau của thế kỷ XVI, các giáo sĩ dòng Tên
đã dẫn đầu một chiến dịch khôi phục lại Công giáo trong toàn cõi
Hungary. Các tu sĩ Dòng Tên đã thành lập các cơ sở giáo dục, bao gồm cả Đại học Công giáo Pázmány Péter, là một trong các trường đại học lâu đời nhất vẫn còn tồn tại ở Hungary. Vào thế kỷ XVII, Hungary một lần nữa trở thành quốc gia Công giáo.
Phần phía đông của đất nước, đặc biệt là xung quanh thành phố Debrecen, vẫn còn có các cộng đồng Tin Lành
đáng kể. Giáo hội Cải cách ở Hungary là nhà thờ lớn thứ hai ở Hungary
với 1.622.000 tín hữu, và 600.000 tín hữu tích cực. Giáo hội có 1.249
hội chi nhánh và 27 Mục sư và 1.550 Truyền đạo. Giáo hội Cải cách hỗ trợ 129 cơ sở giáo dục và có 4 chủng viện thần học tại Debrecen, Sárospatak, và Budapest.[18] Chính Thống giáo ở Hungary đã trở thành tôn giáo chủ yếu của một số dân tộc thiểu số trong cả nước,[19] đặc biệt là cộng đồng người Romania, người Nga, người Ukraina, và người Serb.
Hungary đã từng là quê hương của một cộng đồng Giáo hội Công giáo Armenia khá lớn. Họ thực hành theo nghi thức Armenia, nhưng họ đã hiệp thông với Giáo hội Công giáo Rôma dưới quyền tối thượng của giáo hoàng.
Trong lịch sử, Hungary cũng từng có một cộng đồng Do Thái giáo lớn, đặc biệt là khi nhiều người Do Thái, bị khủng bố ở Nga, đã tìm thấy nơi trú ẩn trong Vương quốc Hungary vào thế kỷ XIX.
Điều tra dân số của tháng 1 năm 1941 cho thấy 6,2% dân số, tức là
846.000 người, được coi là người Do Thái theo pháp luật phân biệt chủng
tộc của thời điểm đó. Trong số này, 725.000 được coi là tín đồ Do Thái
giáo.[20] Một số người Do Thái Hungary đã có thể thoát khỏi Holocaust trong Thế chiến II,
nhưng hầu hết (có lẽ 550.000 người), hoặc bị đưa đên các trại tập
trung, từ đó phần lớn họ đã không trở lại, hoặc bị giết bởi phát xít
Đức. Người Do Thái còn lại ở Hungary hiện nay sống ở trung tâm Budapest,
đặc biệt là trong khu vực VI. Các giáo đường Do Thái lớn nhất châu Âu nằm ở Budapest.[21] Trong những thập kỷ gần đây Phật giáo đã lan rộng đến Hungary, chủ yếu là Phật giáo Kim cương thừa thông qua các hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng.
Vì ở Hungary, tôn giáo được khuyến khích nên các tổ chức Phật giáo khác
nhau đã hình thành, trong đó có Giáo hội Phật giáo Hungary
(Magyarországi Buddhista Egyházközösség), và những tổ chức khác, chủ yếu
vẫn là Phật giáo hệ phái Kim cương thừa.